Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vừa tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 6/6/2014 của Ban Bí thư khóa XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao”. Sau 10 năm, Bộ đánh giá lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp có nhiều chuyển biến.
Tỷ lệ lao động có chứng chỉ và văn bằng tăng dần, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong quá trình triển khai Chỉ thị số 37-CT/TW, tính đến tháng 6/2024, đã có 141 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật Giáo dục nghề nghiệp, từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách cho giáo dục nghề nghiệp và đào tạo nhân lực có tay nghề cao.
Các bậc trình độ đào tạo giáo dục nghề nghiệp được hình thành theo hướng mở, liên thông, phù hợp với hệ thống giáo dục nghề nghiệp các nước trên thế giới. Đã hình thành mạng lưới trường cao đẳng chất lượng cao, tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế.
Số lượng tuyển sinh giai đoạn 2014 - 2023 đạt 21.238 triệu người, trong đó trình độ cao đẳng đạt 1,716 triệu người (chiếm 8,1%), trình độ trung cấp đạt 2,4 triệu người (chiếm 11,6%).
Quy mô đào tạo tăng góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ của cả nước năm 2023 đạt 27,6%.
Chương trình đào tạo được đổi mới, phát triển dựa trên các tiêu chuẩn kỹ năng nghề. Đã xây dựng và ban hành 300 bộ khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp trình độ trung cấp, cao đẳng cho 300 nghề. Qua đó, giúp các trường tự chủ làm căn cứ xây dựng, điều chỉnh, ban hành chương trình đào tạo của trường đạt chuẩn đầu ra theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam.
Cùng với đó, đào tạo chất lượng cao được đẩy mạnh, đã tổ chức đào tạo thí điểm theo các bộ chương trình chuyển giao từ Australia, Cộng hòa Liên bang Đức; đào tạo nghề cho lao động nông thôn được đẩy mạnh.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp cũng tăng nhanh về số lượng, chất lượng, từng bước đạt chuẩn. Chương trình đào tạo từng bước được đổi mới theo yêu cầu của doanh nghiệp; chuyển giao, áp dụng các chương trình đào tạo tiên tiến của nước ngoài, như Australia, Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp, Hàn Quốc...
Đáng chú ý, nhiều chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp khi tham gia hoạt động đào tạo được sửa đổi, bổ sung, tạo động lực cho doanh nghiệp tích cực tham gia phát triển giáo dục nghề nghiệp. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp cũng được đẩy mạnh cả về quy mô, và đa dạng hóa về nội dung, hình thức.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã gắn kết hơn với doanh nghiệp và cơ sở sử dụng lao động trong tổ chức đào tạo, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp. Đặc biệt, cơ chế phối hợp 3 bên: Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp và cơ sở sử dụng lao động bắt đầu hình thành, vận hành có hiệu quả trong thực tiễn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho rằng nhận thức về đào tạo nhân lực có tay nghề cao ở một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương còn chưa thống nhất và đầy đủ.
Chưa làm tốt công tác dự báo nguồn nhân lực. Việc thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp triển khai chậm.
Mặt khác, trình độ học vấn của lực lượng lao động qua đào tạo ở Việt Nam thấp, chủ yếu là trung học cơ sở; trình độ đào tạo sơ cấp, dưới 3 tháng còn chiếm tỷ lệ cao (80%).
Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa đủ điều kiện đào tạo nhân lực tay nghề cao. Việc đào tạo nhân lực có tay nghề cao chưa đáp ứng nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực của thị trường lao động...