Số liệu được Tổng cục Thống kê công bố sáng 29/12/2021 cho thấy, sản xuất công nghiệp trong quý 4/2021 khởi sắc ngay sau khi các địa phương trên cả nước thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 với tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt 6,52% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung cả năm 2021, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp tăng 4,82% so với năm 2020 (quý 1 tăng 6,44%; quý 2 tăng 11,18%; quý 3 giảm 4,4%; quý 4 tăng 6,52%).
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37% (quý 1 tăng 8,9%; quý 2 tăng 13,35%; quý 3 giảm 4,09%; quý 4 tăng 7,96%), đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế.
Tiếp đến, ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 6,21% (do sản lượng khai thác dầu thô giảm 5,7% và khí đốt tự nhiên giảm 19,4%), làm giảm 0,23 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất năm 2021 của một số ngành công nghiệp trọng điểm cấp 2 tăng cao so với năm trước, gồm: kim loại tăng 22,1%; xe có động cơ tăng 10,2%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,6%; khai thác than cứng và than non tăng 9%; dệt tăng 8,3%; than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 8,1%; sản xuất trang phục tăng 7,6%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số sản xuất của một số ngành là thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 16,9%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 13,2%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 11,5%; thoát nước và xử lý nước thải giảm 5,5%; khai thác quặng kim loại giảm 4,9%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2021 so với năm 2020 tăng ở 48 địa phương và giảm ở 15 địa phương trên cả nước.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực năm 2021 tăng cao so với năm trước, gồm: Thép cán tăng 33,5%; linh kiện điện thoại tăng 29,5%; xăng dầu tăng 14,4%; sữa bột tăng 13,1%; khí hóa lỏng LPG tăng 10,9%; sắt, thép thô tăng 10,5%; thức ăn cho gia súc tăng 9,5%; ô tô tăng 9,1%; than sạch tăng 9%.
Ngược lại, một số sản phẩm giảm so với năm trước là tivi giảm 38,6%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%; bia giảm 7,1%; dầu mỏ thô khai thác giảm 5,7%; đường kính giảm 3,3%; thức ăn cho thủy sản giảm 3,2%.
Về chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2021 tăng 5,9% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5% so với năm 2020 (năm trước tăng 3,3%).
Trong khi đó, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2021 tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 21,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 25,3%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2021 là 79,1% (năm 2020 là 71,9%).
Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2021, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục dẫn đầu với số vốn đăng ký đạt 7,25 tỷ USD, chiếm 47,6% tổng vốn đăng ký cấp mới. Nếu tính cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 14,60 tỷ USD, chiếm 60,2% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm.
Theo ngành kinh tế, vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 3,52 tỷ USD, chiếm 51,1% giá trị góp vốn.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cũng nêu rõ, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2021 tăng 1,7% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,9% so với cùng thời điểm năm trước.
Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,2% và giảm 2,2%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,2% và giảm 3,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,1% và giảm 1%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,8% và giảm 2,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,4% và tăng 3,6%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,2% và giảm 0,5%.
Về xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong quý 4/2021, có 44% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý 3/2021; 31,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 24,9% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn .
Dự kiến quý 1/2022, có 45,6% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý 4/2021; 36,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 18,3% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
Trong đó, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất với 83,1% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý 1/2022 tốt hơn và giữ ổn định so với quý 4/2021; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài Nhà nước lần lượt là 82% và 81,2%.
Về khối lượng sản xuất, xu hướng quý 1/2022 so với quý 4/2021 có 45,4% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 17,4% số doanh nghiệp dự báo giảm và 37,2% số doanh nghiệp dự báo ổn định.
Về đơn đặt hàng 1/2022 so với quý 4/2021, có 41,4% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 16,8% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 41,8% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.
Về đơn đặt hàng xuất khẩu quý 1/2022 so với quý 4/2021, có 37,2% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 16,7% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 46,1% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.