Ngày 3/10, tại Hà Nội, Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phối hợp với Hội Khoa học Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội thảo “Carbon rừng - Tiềm năng tạo nguồn tài chính mới cho bảo vệ và phát triển rừng”.
Sự kiện đã thu hút được sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ cơ quan quản lý nhà nước, chủ rừng, địa phương, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế, để cùng nhau trao đổi, thảo luận và tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm khai thác tiềm năng của thị trường carbon rừng, đề xuất các cơ chế chính sách phù hợp, thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và cộng đồng vào các dự án bảo vệ rừng và phát triển thị trường carbon.
RỪNG VIỆT NAM CÓ TIỀM NĂNG LỚN VỀ TÀI CHÍNH CARBON
Phát biểu tại hội thảo, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, cho biết theo các báo cáo thống kê, tổng giá trị của thị trường tín chỉ carbon toàn cầu đã đạt mức hơn 100 tỷ USD vào năm 2023, giá tín chỉ carbon dao động từ 1-2 USD đến gần 200 USD mỗi tấn.
“Nếu được quản lý và phát triển tốt, thị trường này có thể mang lại cho Việt Nam hàng trăm triệu USD mỗi năm, giúp bảo vệ rừng, tạo nguồn tài chính bền vững, và hỗ trợ các cộng đồng địa phương sống gần rừng. Hơn nữa, việc tham gia vào thị trường carbon còn giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, đặc biệt là mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 mà chúng ta đã cam kết tại Hội nghị COP26”, ông Bảo nhấn mạnh.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện trạng rừng toàn quốc năm 2023 bao gồm cả diện tích rừng chưa đủ tiêu chí tính tỷ lệ che phủ là 14,86 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên hơn 10,12 triệu ha, rừng trồng là trên 4,73 triệu ha. Diện tích rừng đủ tiêu chí tính tỷ lệ che phủ là 13, 92 triệu ha, trong đó, rừng tự nhiên 10,12 triệu ha, rừng trồng là 3,79 triệu ha. Tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc là 42,02%.
“Với diện tích rừng rộng lớn, cùng các cam kết bảo vệ môi trường, Việt Nam là một trong những nước có tiềm năng phát triển tín chỉ carbon từ rừng lớn nhất thế giới”, bà Phạm Châu Giang, Giám đốc Đối ngoại Tập đoàn Vinacapital, đơn vị đang sở hữu Quỹ Vinacarbon, nhận định; đồng thời đưa ra 3 lý do để chứng minh.
Thứ nhất, chúng ta có gần 15 triệu ha rừng, đứng thứ 35 trong tổng số các quốc gia có diện tích rừng lớn nhất thế giới, đặc biệt trong đó có hơn 200 ngàn ha rừng ngập mặn. Nếu rừng trên đất liền được coi là “mỏ bạc” thì rừng ngập mặn chính là “mỏ kim cương”. Nếu chúng ta biết cách khai thác thì những mỏ bạc, mỏ kim cương này không chỉ sinh ra nguồn lợi kinh tế, mà rừng còn không bị mất đi và ngày càng đẹp hơn.
Thứ hai, để tạo ra những tín chỉ carbon rừng, cần nhiều lao động thủ công với khối lượng công việc chân tay rất lớn. Việt Nam có gần 60 triệu lao động thủ công với chi phí cạnh tranh là một lợi thế rất lớn. Trong khi những nước có diện tích rừng tương đương Việt Nam không có.
Thứ ba, chúng ta có một thị trường tín chỉ carbon rất rộng mở, và có tệp khách hàng luôn sẵn sàng mua tín chỉ carbon rừng, nhất là tín chỉ carbon rừng có chất lượng.
TẮC NGHẼN PHÁP LÝ
Tiềm năng tài chính từ tín chỉ carbon rừng của Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, để tận dụng tiềm năng này, cần phải giải quyết các thách thức về khung pháp lý, tài chính, kỹ thuật, và sự tham gia của cộng đồng. Ông Trần Quang Bảo đã chỉ ra 4 thách thức lớn cho việc khai thác phát triển tín chỉ carbon rừng của Việt Nam hiện nay gồm:
Thứ nhất, khung pháp lý và chính sách chưa đầy đủ. Mặc dù Việt Nam đã có các bước khởi đầu như tham gia vào cơ chế REDD+, nhưng khung pháp lý cụ thể cho thị trường tín chỉ carbon rừng vẫn chưa hoàn thiện; Cơ chế xác định quyền sở hữu tín chỉ carbon rừng, chia sẻ lợi ích từ các dự án rừng và quản lý nguồn lợi từ tín chỉ vẫn chưa rõ ràng, gây khó khăn cho việc triển khai các dự án.
Thứ hai, hệ thống theo dõi, báo cáo và xác minh (MRV) chưa hoàn thiện. Hiện nay, hệ thống MRV của Việt Nam vẫn đang phát triển và chưa đáp ứng đủ yêu cầu về tính chính xác và minh bạch để đạt được sự công nhận trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, nguồn tài chính hạn chế. Phát triển các dự án rừng bền vững để tạo ra tín chỉ carbon đòi hỏi nguồn vốn lớn, trong khi Việt Nam vẫn chưa có đủ nguồn lực tài chính để hỗ trợ cho các dự án này.
Thứ tư, nhận thức đầy đủ về giá trị của tín chỉ carbon rừng và khả năng quản lý, thực hiện các dự án bảo tồn rừng và tín chỉ carbon rừng của nhiều cơ quan và tổ chức tại Việt Nam còn hạn chế.
“Việc cải thiện hệ thống quản lý, tăng cường hợp tác quốc tế và đẩy mạnh nhận thức xã hội là những bước quan trọng để Việt Nam có thể phát triển thị trường tín chỉ các carbon hiệu quả”, ông Bảo nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, bà Giang cũng chỉ ra ra 4 thách thức lớn nhất với thị trường tín chỉ carbon rừng của Việt Nam.
Thứ nhất, thiếu hụt về khung khổ pháp lý.
“Tín chỉ carbon không chỉ là vấn đề mới với Việt Nam, mà với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, Chính phủ cần thời gian tìm hiểu, tham khảo quốc tế để xây dựng những chính sách phù hợp nhất trong điều kiện và bối cảnh của Việt Nam. Tôi tin rằng Việt Nam sẽ vượt qua thách thức này để sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý,” bà Giang bày tỏ.
Thứ hai, vấn đề kỹ thuật và hệ thống thông tin.
Rừng trồng mới để được chứng nhận tín chỉ carbon thì phải đáp ứng nhiều tiêu chí rất khắt khe, như chứng minh được khu đất đó 10 năm trước là đất trống. Với những cánh rừng đã hiện hữu phải đạt chứng nhận FSC (công cụ hỗ trợ quản lý rừng có trách nhiệm và bền vững trên thế giới), trong khi đó, hệ thống pháp luật với rất nhiều vướng mắc khiến cho nhiều cánh rừng đến nay vẫn chưa được chứng nhận đạt FSC.
Thứ ba, phân bố của rừng việt Nam còn manh mún và phân tán.
Bà Giang cho biết nhiều chủ rừng đã liên hệ với Vinacarbon, mong muốn được hỗ trợ bán tín chỉ carbon. Nhưng thực tế khảo sát cho thấy những cánh rừng nhỏ manh mún từ 3000 ha đến 10.000 ha không khả thi về mặt lợi nhuận do chi phí quá lớn.
Rõ ràng, muốn thu được nguồn lợi từ carbon rừng thì phải đạt đến quy mô nhất định. Do đó, rất cần một sự kết nối giữa các chủ rừng để đạt tới quy mô sinh lời, cũng như sự hỗ trợ của nhà nước để dễ dàng đạt chuẩn FSC hơn.
Thứ tư, thiếu các chính sách hỗ trợ tài chính.
Qua thực tế, thấy rằng ngay khi xây dựng được các mô hình tài chính tốt nhất, kết hợp bảo vệ rừng và kinh doanh tốt nhất, thì những dự án về tín chỉ carbon rừng cũng phải mất từ 7-8 năm mới có thể thu hồi vốn, tỷ suất lợi nhuận so với ngành dịch vụ mới không phải là cao.
“Nếu Việt Nam quyết tâm phát triển thị trường tín chỉ carbon, xây dựng hệ thống lâm nghiệp carbon thì nên đưa ra những cơ chế khuyến khích từ chính sách đầu tư, chính sách thuế cho chủ rừng, chủ đất, quỹ đầu tư, doanh nghiệp để họ yên tâm đầu tư lâu dài vào thị trường tín chỉ carbon rừng”, bà Giang khuyến nghị.