Theo Báo cáo "Khoảng cách thích ứng 2024: Bất chấp mọi khó khăn" của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), nhiệt độ trung bình toàn cầu đang tăng lên gần 1,5°C so với mức trước thời kỳ công nghiệp, và ước tính đã đưa thế giới vào lộ trình tăng thảm khốc 2,6-3,1°C trong thế kỷ này nếu không có những cắt giảm ngay lập tức và lớn đối với lượng khí thải nhà kính.
Được công bố ngay trước thềm các cuộc đàm phán về khí hậu của Hội nghị COP29 tại Baku, Azerbaijan, báo cáo nhận thấy một nhu cầu cấp thiết phải tăng đáng kể quy mô thích ứng trong thập kỷ này để giải quyết các tác động ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, điều này đang bị cản trở bởi khoảng cách lớn tồn tại giữa nhu cầu tài chính thích ứng và dòng tài chính thích ứng công cộng quốc tế hiện tại.
CẦN PHẢI THU HẸP KHOẢNG TRỐNG TÀI CHÍNH CHO CÁC MỤC TIÊU VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Theo Báo cáo, dòng tài chính thích ứng công cộng quốc tế chảy vào các nước đang phát triển đã tăng từ 22 tỷ USD vào năm 2021 lên 28 tỷ USD vào năm 2022- mức tăng tuyệt đối và tương đối theo năm lớn nhất kể từ Thỏa thuận Paris.
Điều này phản ánh tiến trình hướng tới Hiệp ước Khí hậu Glasgow, trong đó kêu gọi các quốc gia phát triển vào năm 2025 ít nhất phải tăng gấp đôi tài chính thích ứng cho các nước đang phát triển từ mức 19 tỷ USD năm 2019.
Tuy nhiên, ngay cả khi đạt được mục tiêu của Hiệp ước Khí hậu Glasgow thì cũng chỉ thu hẹp được khoảng cách tài chính thích ứng, ước tính ở mức 187-359 tỷ USD mỗi năm, khoảng 5%.
"Thảm họa khí hậu đang tàn phá sức khỏe, gia tăng bất bình đẳng, gây tổn hại đến phát triển bền vững và làm lung lay nền tảng của hòa bình", Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres cho biết.
"Chúng ta cần các nước phát triển tăng gấp đôi nguồn tài chính thích ứng lên ít nhất 40 tỷ USD một năm vào năm 2025– một bước quan trọng để thu hẹp khoảng cách tài chính. Chúng ta cần mở khóa mục tiêu tài chính khí hậu mới tại COP29", ông nói thêm."
Hiện nay, có 171 quốc gia hiện có ít nhất một công cụ lập kế hoạch thích ứng quốc gia– tức là chính sách, chiến lược hoặc kế hoạch – tại chỗ.
Trong số 26 quốc gia không có công cụ lập kế hoạch quốc gia, 10 quốc gia không có dấu hiệu phát triển công cụ nào; 7 trong số các quốc gia này là các quốc gia bị ảnh hưởng bởi xung đột hoặc dễ bị tổn thương và sẽ cần hỗ trợ phù hợp đáng kể nếu mục tiêu của Khung UAE về khả năng phục hồi khí hậu toàn cầu về lập kế hoạch đạt được vào năm 2030.
Ngoài ra, hiệu quả tiềm tàng của các kế hoạch thích ứng quốc gia (NAP) từ các nước đang phát triển là hỗn hợp, chỉ ra nhu cầu hỗ trợ chuyên dụng để đảm bảo lập kế hoạch thích ứng dẫn đến hành động có ý nghĩa trong các bối cảnh này.
Theo các chuyên gia, các hành động thích ứng đang có xu hướng tăng chung, nhưng không tương xứng với thách thức. Ngoài ra, các đánh giá về các dự án được thực hiện với sự hỗ trợ từ các tổ chức tài trợ theo Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) cho thấy khoảng một nửa không đạt yêu cầu hoặc không có khả năng bền vững nếu không có kinh phí dự án trong dài hạn.
Các quốc gia báo cáo tiến độ thực hiện NAP của mình nhưng thấy quy mô và tốc độ thực hiện thích ứng là không đủ trong bối cảnh rủi ro khí hậu gia tăng. Nhìn chung, cần phải tăng cường nỗ lực để đạt được mục tiêu thực hiện Khung của UAE về khả năng phục hồi khí hậu toàn cầu.
Với quy mô của thách thức, việc thu hẹp khoảng cách tài chính thích ứng cũng sẽ đòi hỏi những cách tiếp cận sáng tạo để huy động thêm nguồn tài chính. Các yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ hơn, các cách tiếp cận mới và các công cụ tài chính là chìa khóa để mở khóa tài chính thích ứng, cho cả khu vực công và tư nhân.
Các yếu tố hỗ trợ cho khu vực công bao gồm việc tạo ra các quỹ và cơ sở tài chính, lập kế hoạch tài chính khí hậu và gắn thẻ ngân sách khí hậu, lồng ghép vào kế hoạch phát triển quốc gia và khuôn khổ chi tiêu trung hạn, và lập kế hoạch đầu tư thích ứng. Những điều này có thể được hỗ trợ bởi các cải cách đang được đề xuất cho các tổ chức tài chính quốc tế và các ngân hàng phát triển đa phương.
Các yếu tố hỗ trợ của khu vực tư nhân bao gồm các phương pháp tiếp cận và công cụ mới nhằm giảm rủi ro cho tài chính khu vực tư nhân bằng tài chính công. Những yếu tố này có thể được hỗ trợ bởi các nền tảng và công cụ tăng tốc thích ứng.
Tài trợ thích ứng cũng cần chuyển từ các hành động phản ứng, gia tăng và dựa trên dự án sang thích ứng mang tính dự đoán, chiến lược và chuyển đổi hơn, nếu không sẽ không mang lại quy mô hoặc loại thích ứng cần thiết. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi phải hành động trong các lĩnh vực khó tài trợ hơn: để hỗ trợ điều này, cần phải sử dụng tài chính công quốc tế có sẵn một cách chiến lược hơn nhiều.
Ngoài ra, câu hỏi ai trả tiền cho việc thích ứng không được giải quyết thỏa đáng. Trong nhiều thỏa thuận tài chính, chi phí cuối cùng của việc thích ứng do các nước đang phát triển chịu. Điều này có thể giúp thu hẹp khoảng cách tài chính, nhưng không phù hợp với nguyên tắc trách nhiệm chung nhưng khác biệt và năng lực tương ứng, hoặc với nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
NỖ LỰC CỦA VIỆT NAM TRONG THỰC HIỆN CAM KẾT VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Theo World Bank, để đối phó với những xu hướng về biến đổi khí hậu, Việt Nam cần áp dụng mô hình phát triển mới dựa trên hai lộ trình. Đó là thích ứng với biến đổi khí hậu và xây dựng khả năng chống chịu, giảm thiểu biến đổi khí hậu bằng cách khử carbon trong quá trình tăng trưởng bằng cách cắt giảm lượng phát thải, hướng nền kinh tế theo hướng giảm dần các nguồn năng lượng thâm dụng carbon.
Nếu được thiết kế hiệu quả thì hai lộ trình này không chỉ giúp đất nước đạt được các mục tiêu về khí hậu mà còn thúc đẩy GDP bình quân đầu người tăng hơn 5% một năm- tỷ lệ trung bình cần thiết để trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.
Tuy nhiên để đạt được thành quả tích cực như vậy dự kiến cần đầu tư khoảng 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022 - 2040 vào cơ sở hạ tầng, công nghệ mới và các chương trình xã hội để đảm bảo “chuyển dịch công bằng” hướng tới nền kinh tế phát thải ròng bằng “0” và có khả năng chống chịu với khí hậu.
"Để có thể thúc đẩy tiến trình thực hiện các mục tiêu SDG, việc thu hẹp khoảng trống về tài chính cho SDG cũng như lựa chọn các lĩnh vực chuyển đổi trọng tâm ngày càng trở nên cần thiết".
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc.
Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDG) tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ.
Kết quả Rà soát quốc gia tự nguyện (VNR) năm 2023 cho thấy, việc thực hiện các mục tiêu SDG tại Việt Nam đã đạt được thành tựu nhất định, kết quả tích cực đã được ghi nhận trên nhiều chỉ tiêu cụ thể trong một số lĩnh vực như chăm sóc và bảo vệ trẻ em, bảo trợ xã hội, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, tiếp cận điện năng…
Tại hội thảo chia sẻ kết quả nghiên cứu “Thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam: Lựa chọn chính sách” mới đây, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quốc gia, ngành, lĩnh vực đã tích hợp toàn diện các mục tiêu SDG, đã lồng ghép tốt hơn các nhóm yếu thế như người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em, phụ nữ để bảo đảm tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau” của Chương trình nghị sự 2030.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Ngọc cũng chỉ rõ trong bối cảnh hiện nay, việc thực hiện các mục tiêu SDG tại Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là việc huy động nguồn lực tài chính để đáp ứng nhu cầu thực hiện các mục tiêu.
“Nguồn ODA giảm rõ rệt, đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, nguồn FDI vẫn tiếp tục tăng, song chất lượng và mức độ lan tỏa của khu vực FDI tới phát triển bền vững đất nước chưa thực sự rõ rệt, nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân trong nước chưa thể hiện được vai trò là động lực của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước như kỳ vọng”, bà Ngọc cho biết.
Vì vậy, Thứ trưởng Ngọc cho rằng để có thể thúc đẩy tiến trình thực hiện các mục tiêu SDG, việc thu hẹp khoảng trống về tài chính cho SDG cũng như lựa chọn các lĩnh vực chuyển đổi trọng tâm ngày càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Đồng tình với quan điểm trên, bà Pauline Tamesis, Điều phối viên Thường trú Liên hiệp quốc tại Việt Nam, khuyến nghị Việt Nam cần tiếp tục đầu tư đẩy nhanh tiến độ để đạt được các mục tiêu SDG, trong đó chú trọng đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng năng lượng, hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội để đảm bảo sự chuyển đổi công bằng.