September 15, 2022 | 06:38 GMT+7

Workplace qualifications and skills still short of requirements

Nhật Dương -

Despite improving over recent years, the qualifications and skills of Vietnamese workers are still low compared to requirements in other countries. This continues to be a “bottleneck” for the development of productive jobs. According to the Ministry of Labor, Invalids and Social Affairs (MoLISA), the proportion of Vietnamese workers with degrees and certificates stands at just 26 per cent, with major disparities seen between urban and rural areas and between male and female workers.

Photo: Illustration
Photo: Illustration

Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến nay tỷ lệ lao động có bằng, chứng chỉ của Việt Nam mới chỉ đạt trên 26% và có sự chênh lệch tương đối lớn giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa lao động nam và lao động nữ.  

Chất lượng lao lao động cũng có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, tỷ lệ lao động động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ đạt cao nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng (36,96%), tiếp đến là vùng vùng Đông Nam Bộ (28,34%), vùng Trung du và miền núi phía Bắc (25,99%), vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (25,75%); thấp nhất là 2 vùng Tây Nguyên (16,51%) và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (14,61).

Sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng của thị trường lao động, di chuyển lao động giữa các nước, đòi hỏi người lao động không những phải có kỹ năng nghề cao mà phải có kỹ năng mềm, năng lực làm việc trong môi trường quốc tế.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải tuân thủ các “luật chơi” chung, bao gồm các tiêu chuẩn về lao động, tiêu chuẩn về quản trị thị trường lao động hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra những vấn đề mới, nhiều việc làm, kỹ năng cũ sẽ mất đi hoặc giảm mạnh, xuất hiện nhiều việc làm mới, kỹ năng mới; trí tuệ nhân tạo, robot, máy móc sẽ đóng vai trò ngày một lớn trọng sản xuất và thay thế nhiều vị trí việc làm hiện tại.

Mặc dù vậy, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đánh giá, về mặt tổng thể, Việt Nam chưa tạo ra được lực lượng lao động có trình độ, kỹ năng nghề cao. Người học tốt nghiệp yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm; quy mô, cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa phù hợp. Chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường lao động, do vậy chưa đủ sức hấp dẫn các doanh nghiệp, cũng như chưa tận dụng được hết cơ hội của thời kỳ dân số vàng để thu hút nguồn lực đầu tư FDI.

Việt Nam đã chính thức bước vào vào giai đoạn già hóa dân số năm 2011 với 10,1% dân số là người cao tuổi, tỷ lệ này tăng lên 13,3% dân số năm 2020. Dự báo đến năm 2039, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia dân số già và đối mặt với nguy cơ “già trước khi giàu”.

Tuy nhiên, vấn đề lao động có bằng cấp, chứng chỉ thấp, lao động trong nông nghiệp và khu vực phi chính thức cao sẽ đặt ra những áp lực lớn để tạo việc làm bền vững, tăng năng suất lao động.

Tỷ lệ lao động có kỹ năng nghề cao của Việt Nam vẫn ở mức thấp. Ảnh - Nhật Dương. 
Tỷ lệ lao động có kỹ năng nghề cao của Việt Nam vẫn ở mức thấp. Ảnh - Nhật Dương. 

Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam Ingrid Christensen, cho rằng tăng trưởng bền vững phải dựa vào tăng trưởng năng suất, trong đó, năng suất lao động là một khía cạnh quan trọng, bởi năng suất lao động gắn với gia tăng thu nhập. Trong khi tăng trưởng năng suất lao động một phần dựa trên phát triển nguồn nhân lực.

Theo bà Ingrid Christensen, ở Việt Nam, các công việc đòi hỏi kỹ năng cao chiếm khoảng 12% tổng số việc làm. Việt Nam hướng đến trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 cũng đồng nghĩa với việc số lượng việc làm yêu cầu kỹ năng cao cũng nhiều gấp đôi.

Tuy nhiên, bên cạnh nhóm lao động trình độ kỹ năng cao có việc làm chính thức, còn có một bộ phận khác gồm những người lao động có kỹ năng thấp làm các công việc phi chính thức năng suất thấp.

Lao động có việc làm phi chính thức đã giảm đáng kể ở Việt Nam trong 15 năm qua nhưng vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong số lao động có việc làm. Tỷ lệ phi chính thức cao nghĩa là hầu hết người lao động Việt Nam kiếm sống dựa vào các hoạt động có năng suất thấp, tạo ra thu nhập thấp và không có bất kỳ sự bảo hộ nào. “Sự tăng trưởng dựa vào một thị trường lao động trong đó có hơn 60% lao động không có tiếp cận an sinh xã hội sẽ không bền vững, đặc biệt là trong một xã hội đang có sự già hóa về dân số như Việt Nam”, bà Ingrid Christensen nhận định.

Tuy nhiên, vấn đề phi chính thức không chỉ gói gọn trong khả năng tiếp cận an sinh xã hội. Khi bộ phận này của thị trường lao động vẫn đang có năng suất, trình độ kỹ năng thấp, làm các công việc được trả công thấp, thì Việt Nam sẽ không thể tận dụng tối đa tiềm năng về năng suất lao động của mình.

“Tôi khuyến nghị Chính phủ Việt Nam tiếp cận chính thức hóa một cách toàn diện nhất có thể và thiết lập các cơ chế điều phối liên bộ ngành. Chính thức hóa là hoạt động quan trọng, giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mình”, Giám đốc ILO Việt Nam nhấn mạnh.

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate