Như VnEconomy đã đưa, Bộ Tài chính đang hoàn thiện dự thảo tờ trình Dự án Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP.
Đáng chú ý, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng vàng. Cụ thể, tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng vàng có hàm lượng vàng dưới 95% từ 0% lên 2% và gộp dòng theo tên gọi mặt hàng theo đúng Danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) mà Việt Nam đã ký kết, không chia cụ thể theo hàm lượng vàng để đơn giản hóa Biểu thuế.
Tuy nhiên, kiến nghị với Bộ Tài chính, Hiệp hội Kinh doanh Vàng Việt Nam (VGTA) cho rằng, để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh vàng ổn định sản xuất nên quy định thuế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ bằng 0%.
Hoặc, trong trường hợp, nếu Bộ Tài chính thấy cần hạn chế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ có hàm lượng cao từ 95% trở lên thì có thể giữ mức thuế xuất khẩu theo quy định hiện hành tại, tức giữ lại mức thuế 0% đối với vàng trang sức mỹ nghệ có hàm lượng vàng từ dưới 95% trở xuống còn từ 95% trở lên thì vẫn mức 2% thuế xuất khẩu.
Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, trong năm 2019 các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã xuất khẩu được 2,1 tỷ USD tăng 231,2% so với cùng kỳ năm 2018. Trong năm 2020 xuất khẩu được 2,6 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu tập trung chủ yếu mặt hàng đồ kỹ nghệ và các bộ phận của đồ kỹ nghệ bằng vàng, đã hoặc chưa mạ hoặc dát phủ kim loại quý, có hàm lượng vàng dưới 95%.
Riêng Tập đoàn DOJI từ năm 2016-2020 đã xuất khẩu được 53,8 tấn sản phẩm vàng kim hoàn, mỹ nghệ thu về cho đất nước 2,5 tỷ USD.
Lập luận của VGTA là, nếu áp mức thuế 2% đồng loạt như dự thảo thì chắc chắn các doanh nghiệp vàng sẽ không thể thực hiện xuất khẩu được.
Chủ tịch VGTA Nguyễn Thành Long phân tích, hiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vàng trên thị trường quốc tế đang rất yếu do không được nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất, trong khi vàng nguyên liệu trong nước luôn cao hơn giá vàng quốc tế từ 6-8 triệu đồng/lượng và phải đầu tư thiết bị công nghệ.
Trái lại, tại Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore… doanh nghiệp vàng được phép nhập vàng nguyên liệu, thậm chí còn không phải chịu thuế nhập khẩu vàng. Thuế xuất khẩu vàng trang sức mỹ nghệ cũng bằng 0%.
Ngoài ra, chi phí nhân công tại những quốc giá này rẻ hơn, thiết bị công nghệ hiện đại hơn… Nhờ vậy, kim ngạch xuất xuẩu vàng trang sức mỹ nghệ đã đạt mức ấn tượng như: Thái Lan vượt trên 10 tỷ USD, Singapore trên 8 tỷ USD, Indonesia trên 6 tỷ USD…
Mặt khác, ông Long cũng cho rằng, quy định mức 2% như dự thảo chỉ để “đơn giản hoá Biểu thuế” và thuận lợi cho công tác Hải quan nhưng doanh nghiệp vàng lại không thể xuất khẩu, đồng nghĩa nguồn thu ngân sách thông qua thuế xuất từ hoạt động này có thể sẽ bằng 0.
“Dù để mức thuế xuất khẩu 0% nhưng doanh nghiệp vàng vẫn xuất khẩu được và nộp cho ngân sách những khoản tiền thuế rất lớn khác thông qua kênh thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT…”, VGTA nhấn mạnh.
Đồng thời, trong trường hợp vẫn quy định để thuế xuất khẩu 2%, việc xuất khẩu chính ngạch sẽ không có và vàng xuất khẩu lậu qua biên giới sẽ tăng mạnh rất khó kiểm soát. Kéo theo việc điều hành chính sách tiền tệ ngày càng khó khăn.
“Nếu ngành vàng bạc đá quý Việt Nam nhận được sự hỗ trợ tốt từ chính sách của Chính phủ thì chắc chắn trong tương lai gần ngành công nghiệp chế tác này cũng sẽ trở thành một trong những ngành mũi nhọn của nền kinh tế”, vị đại diện VGTA chia sẻ.