Đó là một trong những bất cập được nêu tại Hội thảo "Tín dụng xanh, ngân hàng xanh hướng tới phát triển bền vững tại Việt Nam" do Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức vào sáng 27/10, tại Hà Nội.
Cơ quan này cho biết, trong giai đoạn 2017-2021, dư nợ cấp tín dụng xanh tăng trưởng bình quân đạt hơn 25%/năm.
Tính đến ngày 30/06/2022, dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh đạt hơn 474.000 tỷ đồng (chiếm 4,1% tổng dư nợ toàn nền kinh tế), tăng 7,08% so với năm 2021.
Trong đó, dư nợ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm 47%; nông nghiệp xanh chiếm 32%. Còn lại là lĩnh vực quản lý tài nguyên nước bền vững tại khu vực đô thị chiếm 10%, lâm nghiệp bền vững 9% và các lĩnh vực khác chiếm tỷ trọng nhỏ 3%.
Dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt hơn 2,283 triệu tỷ đồng, chiếm gần 20% dư nợ cho vay của nền kinh tế, với hơn 1,1 triệu món vay.
Việt Nam được xếp vào nhóm thứ 2 các quốc gia có sự tiến bộ đáng kể trong tiến trình phát triển bền vững tại Báo cáo Đánh giá tiến bộ quốc gia giai đoạn 2020-2021 của Mạng lưới tài chính và ngân hàng bền vững (SBFN).
Cũng theo Ngân hàng Nhà nước, để đạt được kết quả trên, toàn ngành ngân hàng đã thực hiện nhiều giải pháp cụ thể như: định hướng phát triển ngân hàng xanh; xây dựng kế hoạch hành động của ngành ngân hàng; ban hành các văn bản hướng dẫn về cấp tín dụng xanh, quản lý rủi ro môi trường và xã hội; triển khai chính sách tín dụng ưu đãi cho một số lĩnh vực xanh; xây dựng cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại; thực hiện các giải pháp tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, theo đại diện Ngân hàng Nhà nước, việc cấp tín dụng xanh đang gặp phải 4 vướng mắc nổi bật.
Thứ nhất, chưa có quy định chung của quốc gia về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành/lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các tổ chức tín dụng xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới.
Thứ hai, việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu, khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng. Mặt khác, các tổ chức tín dụng cũng gặp khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi cấp tín dụng do thiếu quy định tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường.
Thứ ba, việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, công trình xanh thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn. Trong khi đó, nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng thường là vốn huy động ngắn hạn, khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc cân đối vốn và đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định.
Thứ tư, hạn chế trong ý thức bảo vệ môi trường của người dân, doanh nghiệp dẫn đến bị xử phạt vi phạm pháp luật về môi trường ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, tiềm ẩn rủi ro thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng.
Chia sẻ thêm về những hạn chế trong mảng thị trường tài chính xanh, ông Nguyễn Như Quỳnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính cho hay, tín dụng xanh mới chỉ nằm trong tay các ngân hàng lớn, do các ngân hàng nhỏ không có nguồn vốn dài hạn, đủ lớn để có thể phục vụ các dự án lớn, lâu dài 7 như năng lượng tái tạo. Điển hình như tính đến cuối năm 2021, BIDV đạt quy mô tín dụng hơn 1,7 tỷ USD, chiếm 36% dư nợ tín dụng cho năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
Nguyên nhân khiến nhiều ngân hàng có tâm lý cẩn trọng khi đầu tư vào lĩnh vực xanh, đặc biệt là năng lượng tái tạo chính là do thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao. Trong khi đó, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng thường là ngắn hạn.
Tính đến cuối năm 2021, Việt Nam có 9/84 tổ chức tín dụng, tương đương 10,7% số lượng các ngân hàng có thiết lập các hỗ trợ, ưu đãi cho các khoản tín dụng xanh. Đồng thời, cũng mới chỉ có 11 ngân hàng, tương đương 13% đơn vị có quy trình thẩm định riêng đối với các khoản cấp tín dụng xanh.
Mặt khác, theo ông Quỳnh, về phía doanh nghiệp, trong giai đoạn đầu triển khai chương trình tín dụng xanh, nhiều doanh nghiệp còn thiếu các thông tin về các sản phẩm tín dụng xanh của ngân hàng và gặp nhiều khó khăn với yêu cầu để được cấp tín dụng xanh, thời gian xin cấp tín dụng xanh dài, các thủ tục vay vốn phức tạp và thiếu tài sản bảo đảm do hầu hết các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng xanh đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
"Yêu cầu đặt ra là các dự án phải chứng minh được tính hiệu quả, minh bạch thông tin, kinh doanh có lợi nhuận, có kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ “xanh” tối thiểu một năm, đặc biệt phải chứng minh được đầu ra của sản phẩm. Đây là điểm khó cho các doanh nghiệp", ông Quỳnh nhấn mạnh.
Với các khó khăn đang có, bà Hà Thu Giang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước, kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành có hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.
"Yêu cầu đặt ra là các dự án phải chứng minh được tính hiệu quả, minh bạch thông tin, kinh doanh có lợi nhuận, có kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ “xanh” tối thiểu một năm, đặc biệt phải chứng minh được đầu ra của sản phẩm. Đây là điểm khoá của các doanh nghiệp".
(Ông Nguyễn Như Quỳnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính)
Đồng thời, cần xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh.
"Ngoài ra, một trong những yếu tố để khơi thông nguồn lực để triển khai các dự án xanh đó là việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn khác ngoài dòng vốn tín dụng ngân hàng", bà Giang nhấn mạnh.