Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã nhấn mạnh điều này tại buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ về tình hình phát triển Khoa học Công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày 11/7.
Báo cáo tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho biết, đến nay, hành lang pháp lý về Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tương đối hoàn thiện với 8 luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, Bộ đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 với mục tiêu đưa khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng.
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THAM GIA SÂU VÀ ĐÓNG GÓP LỚN VÀO SỰ PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH
Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã từng bước khẳng định vai trò, động lực trong phát triển kinh tế xã hội, trong đó nghiên cứu cơ bản đạt được nhiều thành tựu.
Theo đó, chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020 (vượt mục tiêu 35%). Năm 2021, TFP đóng góp khoảng 37,5%; năm 2022, đóng góp khoảng 43,8% vào tăng trưởng kinh tế.
Khoa học và Công nghệ ngày càng tham gia sâu và đóng góp lớn vào sự phát triển của các ngành, lĩnh vực như giáo dục, y tế, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, xây dựng… Đóng góp của khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa ngày càng nhiều (trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi).
Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 38,42 % năm 2016 lên 47,45% năm 2022.
Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam (GII) liên tục tăng vượt bậc. Năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 tăng tiếp 2 bậc, năm 2019 tăng 3 bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong ASEAN (sau Singapore và Malaysia). Năm 2021, Việt Nam xếp thứ 44/132 quốc gia, năm 2022 xếp thứ 48/132 quốc gia, đứng thứ 4 trong khu vực (sau Singapore, Malaysia và Thái Lan).
Việc đầu tư và thực hiện cơ chế tài chính với hoạt động khoa học công nghệ còn nhiều vướng mắc trong xây dựng kế hoạch; lập, giao dự toán; thanh quyết toán; khuyến khích doanh nghiệp trích lập và sử dụng Quỹ phát triển Khoa học công nghệ dẫn đến chưa khơi thông nguồn lực tài chính cho khoa học công nghệ.
Ngoài ra, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam được hình thành và phát triển nhanh chóng. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Ước tính lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo liên tiếp tăng, đạt xấp xỉ 1 tỷ USD liên tiếp trong năm 2019, 2020, tăng gấp 3 lần so với năm 2017, đưa Việt Nam trở thành quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo...
Tuy nhiên, theo ông Định, chính sách, pháp luật về Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo hiện hành còn mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ với các chính sách trong lĩnh vực khác, chưa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa công nghệ công lập theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học công nghệ, chưa tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học công nghệ công lập được tự chủ toàn diện.
Đặc biệt, việc đầu tư và thực hiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ còn nhiều vướng mắc trong xây dựng kế hoạch; lập, giao dự toán; thanh quyết toán; khuyến khích doanh nghiệp trích lập và sử dụng Quỹ phát triển Khoa học công nghệ dẫn đến chưa khơi thông được nguồn lực tài chính cho hoạt động khoa học công nghệ. Việc xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước, thương mại hóa kết quả nghiên cứu gặp nhiều khó khăn cần tháo gỡ.
Bên cạnh đó, kinh phí sự nghiệp khoa học công nghệ, vốn đầu tư phát triển cho hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đáp ứng theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ.
Thị trường khoa học công nghệ còn chậm phát triển; thiếu cơ chế mở, linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác, gắn kết giữa các tổ chức khoa học công nghệ công lập với doanh nghiệp, tạo ra các sản phẩm thương mại hóa dựa trên kết quả nghiên cứu.
Đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ mặc dù tăng về số lượng, nhưng thiếu các nhà khoa học đầu ngành; chưa có cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội để thu hút các nhà khoa học, chuyên gia giỏi trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
XÂY DỰNG KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH KINH TẾ DỰA TRÊN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
Ghi nhận, đánh giá cao kết quả đạt được của ngành khoa học công nghệ, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang nhấn mạnh sự cần thiết phải có cơ chế đặc thù cho khoa học công nghệ và đội ngũ nhân lực làm khoa học công nghệ trên cơ sở tham khảo cách tiếp cận và kinh nghiệm mang lại hiệu quả của quốc tế.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện tốt yêu cầu của Thủ tướng Phạm Minh Chính ngày 17/5/2023, trong đó có xây dựng cơ chế đặc thù và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học; xây dựng khuôn khổ pháp lý để thử nghiệm một mô hình kinh tế dựa trên khoa học công nghệ; xây dựng chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ những người làm khoa học công nghệ.
Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ban hành năm 2012 để đề xuất một nghị quyết mới về phát triển khoa học công nghệ và xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Phó Thủ tướng khẳng định sẽ đồng hành với ngành khoa học công nghệ để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để ngành hoàn thành tốt trọng trách được giao. Đồng thời lưu ý Bộ Khoa học và Công nghệ quán triệt tinh thần làm phải thực chất để khoa học công nghệ ngày càng có nhiều đóng góp thiết thực hơn nữa cho cuộc sống.
Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, trong thời gian tới, sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan để rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, tháo gỡ các rào cản trong chính sách, pháp luật về kinh tế, tài chính, đầu tư, đấu thầu... phù hợp với cơ chế thị trường, tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Cùng với đó Bộ kiến nghị Chính phủ giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp xây dựng, trình Chính phủ Nghị định quy định về cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học công nghệ công lập phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học công nghệ.
Bộ cũng đề nghị Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp xây dựng, hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, thay thế Nghị định số 70/2018/NĐ-CP để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước, trình Chính phủ trong quý IV/2023. Xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 quy định về đầu tư và cơ chế tài chính với hoạt động khoa học công nghệ.