Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, chiều ngày 27/10, Quốc hội nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra tra dự thảo Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù về đầu tư xây dựng công trình giao thông đường bộ.
NĂM NHÓM CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, cho biết thời gian qua, Chính phủ đẩy mạnh việc đầu tư phát triển hệ thống giao thông đường bộ. Đến nay đã đưa vào khai thác sử dụng nhiều công trình trọng điểm, hiện đại như các tuyến cao tốc: Bắc Giang - Lạng Sơn, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Móng Cái, La Sơn - Túy Loan, TP. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, các cầu lớn như Tân Vũ - Lạch Huyện, Bạch Đằng, Nhật Tân, Cao Lãnh, Vàm Cống... góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai áp dụng các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng công trình giao thông đường bộ phát sinh một số quy định, cần điều chỉnh cho phù hợp với tình hình, nhằm khơi thông nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ thi công và giải ngân vốn đầu tư công vào lĩnh vực giao thông đường bộ, là một trong những lĩnh vực hạ tầng quan trọng quốc gia.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, dự thảo Nghị quyết gồm 10 điều với nội dung chính gồm 05 nhóm chính sách.
Cụ thể, về nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm (Điều 3), Chính phủ đề xuất nguyên tắc xây dựng danh mục thí điểm đó là: có đề xuất bằng văn bản của Bộ Giao thông vận tải và/hoặc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đồng thời, “đã xác định hoặc dự kiến được nguồn vốn đầu tư để có thể triển khai thực hiện dự án. Trường hợp sử dụng vốn ngân sách địa phương phải có cam kết bố trí vốn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trước khi cấp có thẩm quyền quyết định danh mục dự án được áp dụng chính sách thí điểm”, dự thảo nêu rõ. Bên cạnh đó, dự án có địa điểm, thời gian thực hiện rõ ràng, cụ thể. Các dự án đề xuất phải thuộc một trong các nhóm chính sách đang đề xuất thí điểm của Nghị quyết này.
Về các chính sách và danh mục kèm theo từng chính sách, Chính sách 1 về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP (Điều 4). Theo đó, đối với các dự án giao thông đường bộ, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư không quá 70% tổng mức đầu tư của dự án.
"Theo quy định hiện hành, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia vào các dự án PPP không vượt quá 50% tổng mức đầu tư dự án. Tuy nhiên thực tế hiện nay, một số dự án giao thông đường bộ có tổng mức đầu tư lớn, trong khi nhu cầu vận tải chưa cao nên cần có sự tham gia vốn nhà nước nhiều hơn để đảm bảo tính khả thi khi kêu gọi đầu tư theo phương thức PPP".
Ngoài ra, có một số dự án đi qua khu vực đồng bằng có nhu cầu giải phóng mặt bằng nhiều, chiếm tỷ lệ cao trong tổng mức đầu tư dự án. Đánh giá tổng kết triển khai các dự án giao thông vận tải cho thấy tỷ trọng phần giải phóng mặt bằng bình quân khoảng 15% tổng mức đầu tư dự án, tuy nhiên, dự án qua đô thị lớn như Vành đai 4 Hà Nội chiếm tỷ lệ tới 23%.
Do đó, “nếu áp dụng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án PPP theo quy định sẽ khó bảo đảm hiệu quả tài chính và không thể hấp dẫn các nhà đầu tư để triển khai theo phương thức PPP”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Chính sách số 2 về thẩm quyền thực hiện đầu tư dự án đường quốc lộ, đường cao tốc đi qua các địa phương (Điều 5). Chính sách này áp dụng cho 07 dự án thuộc địa bàn các tỉnh Sơn La, Ninh Bình, Hậu Giang, Cần Thơ, Khánh Hòa, Bình Phước.
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có khả năng bố trí nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa phương làm cơ quan chủ quản thực hiện đầu tư dự án đường quốc lộ, đường cao tốc đi qua địa phương mình.
Thực tế triển khai cho thấy có nhiều dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương hoặc dự án đi qua ranh giới địa bàn 2 địa phương bằng cầu, hầm.
Thế nhưng bất cập ở điểm theo quy định pháp luật hiện hành, không cho phép 01 địa phương quyết định chủ trương đầu tư và bố trí vốn cho các dự án địa qua địa bàn của địa phương khác. Trường hợp nếu để mỗi địa phương đầu tư một nửa cầu/hầm sẽ không thuận lợi trong công tác quản lý dự án, gây lãng phí bộ máy, thời gian, thủ tục đầu tư...
Chính sách số 3 về các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương (Điều 6): Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định giao một Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm cơ quan chủ quản thực hiện đầu tư dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương và sử dụng ngân sách địa phương này hỗ trợ vốn đầu tư cho địa phương khác để đầu tư thực hiện dự án.
Chính sách này áp dụng cho 10 dự án thuộc địa bàn các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Hải Dương, Đà Nẵng, Quảng Nam, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Đồng Tháp.
Chính sách 4 về cơ chế đặc thù trong khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (Điều 7): nhà đầu tư, nhà thầu thi công không phải thực hiện thủ tục cấp Giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ dự án hạ tầng giao thông đường bộ.
Nhà đầu tư, nhà thầu thi công có trách nhiệm thực hiện đánh giá tác động môi trường; chịu sự quản lý, giám sát đối với việc khai thác, sử dụng khoáng sản; nộp thuế, phí và thực hiện các nghĩa vụ bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của pháp luật có liên quan về thuế, phí, pháp luật về bảo vệ môi trường.
“Chính sách đề xuất nhằm rút ngắn thời gian trong việc cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, đáp ứng kịp thời nguồn cung cấp vật liệu, đảm bảo tiến độ thi công, tránh tình trạng đầu cơ, nâng giá; đồng thời góp phần ổn định giá vật liệu xây dựng thông thường, hạn chế việc tăng chi phí xây dựng công trình”, Bộ trưởng phân tích.
Chính sách số 5 về cơ chế đặc thù áp dụng đối với các dự án sử dụng nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022 (Điều 8). Những chính sách đề xuất đặc thù khác với các quy định tại Luật Đầu tư công áp dụng riêng cho các dự án sử dụng nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2022 để sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.
Đối với các dự án ngoài danh mục ban hành theo Nghị quyết thí điểm, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, cho biết khi có nhu cầu do các địa phương tiếp tục kiến nghị, trường hợp đáp ứng nguyên tắc, tiêu chí của Nghị quyết, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định trong thời gian giữa hai kỳ họp.
LÀM RÕ NGUỒN LỰC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, ẢNH HƯỞNG TỚI NGÂN SÁCH
Nhấn mạnh về sự cần thiết ban hành Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh, cho rằng Chính phủ đề xuất các chính sách thí điểm đặc thù nhằm bảo đảm thực hiện thành công chủ trương về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ hiện đại, đổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thu hút tối đa nguồn lực đầu tư, đa dạng hóa các hình thức huy động nguồn lực, nhất là các nguồn lực ngoài nhà nước. Do đó, nhiều ý kiến tại Ủy ban Kinh tế tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết.
Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị cần bổ sung đánh giá kỹ lưỡng, đầy đủ, cụ thể hơn về tác động của các chính sách, làm rõ hơn đối với tác động đến thu, chi ngân sách nhà nước và nguồn lực bảo đảm thực hiện chính sách.
Về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) (Điều 4), Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với đề xuất tăng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) không quá 70% tổng mức đầu tư của dự án đề xuất thí điểm.
Tuy nhiên, “thời gian qua các tổ chức tín dụng, nhà đầu tư quan ngại việc tham gia đầu tư các dự án giao thông PPP. Do đó, đề xuất của Chính phủ về tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) sẽ chưa xử lý triệt để được những khó khăn, vướng mắc của các dự án giao thông PPP hiện nay”, ông Thanh nêu rõ. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần có giải pháp đồng bộ để bảo đảm hiệu quả của chính sách đề xuất.
Liên quan đến các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương (Điều 6), Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với đề xuất của Chính phủ về các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương nhằm cho phép sử dụng ngân sách của địa phương này hỗ trợ vốn cho các địa phương khác, tạo sự linh hoạt trong điều hành ngân sách, đáp ứng nhu cầu cấp bách của các địa phương và thuận lợi hơn cho công tác quản lý dự án…
Đối với nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm (Điều 3) và danh mục các dự án đề xuất áp dụng thí điểm kèm theo dự thảo Nghị quyết, Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí lựa chọn dự án thí điểm, bảo đảm các dự án được lựa chọn phải thực sự cần thiết, cấp bách, tránh thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả.